Hiền phụ Bùi Hữu Nghĩa

Bàn thờ Bùi Hữu Nghĩa trong đình Bình Thủy

Nguyễn Thị Tồn (? - ?) là người ở thôn Mỹ Khánh, tổng Chánh Mỹ Thượng, huyện Phước Chính, phủ Phước Long, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc tỉnh Đồng Nai). Bà là con gái đầu lòng của Nguyễn Văn Lý (Hộ trưởng thôn Mỹ Khánh) và là vợ của Bùi Hữu Nghĩa.

Không rõ bà kết nghĩa vợ chồng với Bùi Hữu Nghĩa lúc nào, nhưng chắc phải sau năm 1836, khi ông Nghĩa ra thi ở Huế bị trượt, nhưng được triều đình cho tập sự ở bộ Lễ, rồi bổ làm Tri huyện Phước Chính, thuộc tỉnh Biên Hòa.

Sau khi ra Huế đánh trống kêu oan cho chồng, bà được Thái hậu Từ Dụ (mẹ vua Tự Đức), ban cho tấm biển chạm 4 chữ vàng Tiết phụ khả gia.

Tuy cứu được chồng, nhưng khi trở về đến quê nhà ở Biên Hòa, thì bà lâm bệnh mất và được an táng ở nơi đó...[10]. Nghe tin vợ mất, nhưng lúc bấy giờ Bùi Hữu Nghĩa đang ở biên trấn xa xôi, nên khi đến Biên Hòa thì việc an táng đã xong, ông đành làm bài văn tế muộn, một cặp câu đối (một chữ Hán, một chữ Nôm) để tỏ lòng thương tiếc.

Giới thiệu cặp đối chữ Hán:

Ngã chi bần, khanh độc năng trợ; ngã chi oan khanh độc năng minh, triều quận công xưng khanh thị phụKhanh chi bệnh, ngã bất đắc dưỡng; khanh chi tử ngã bất đắc táng, thế gian ưng tiếu ngã phi phu.

Dịch:

Ta nghèo, mình hay giúp đỡ; ta tội, mình biết kêu oan, trong triều ngoài quận đều khen mình mới thật là vợ.Mình bịnh, ta không thuốc thang; mình chết, ta không chôn cất; non sông cười ta chẳng xứng gọi là chồng.